Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Giới thiệu cho bạn về vấn đề phân phối: Miếng ngon dễ mất phần

Vì thế, khi chào bán tại Việt Nam, các sản phẩm điện thoại này liên tục bị “đụng hàng”. Sự suy yếu càng gia tăng, khi hai “ông lớn” Nokia và Samsung cùng lúc tấn công vào phân khúc hàng giá rẻ. Điều này đã kéo theo sự tụt dốc, và chết dần của hơn 50 thương hiệu điện thoại Trung Quốc - Việt Nam giống nhau về mẫu mã đã được bán phổ biến tại thị trường Việt Nam.
Ảnh: Quý Hòa
Cắt dần mắt xích
Cách đây 2 năm, dòng điện thoại “2 sim - 2 sóng”, có giá dao động từ 300.000 - 2.000.000 đồng/máy, luôn chiếm giữ “ngôi vương”, với mức tiêu thụ hàng chục ngàn máy/tháng. Hiện nay, ưu thế này đang thuộc về các sản phẩm có tên tuổi lớn như: Nokia, Samsung, LG, Sony Ericsson...
Điều này thể hiện rõ tại các hệ thống bán lẻ ĐTDĐ như: Thế Giới Di Động, Viễn Thông A, Phước Lập Mobile hay Nguyễn Kim. Lý giải về sự “yểu mệnh” của các sản phẩm điện thoại mang thương hiệu Trung Quốc hay điện thoại mang “mác” Việt Nam, ông Mai Triều Nguyên chia sẻ, dù “núp bóng” dưới thương hiệu gì, các sản phẩm đó đều bắt nguồn từ một nhà cung cấp tại Trung Quốc (chủ yếu ở Thẩm Quyến).
Vì thế, khi chào bán tại Việt Nam, các sản phẩm điện thoại này liên tục bị “đụng hàng”. Sự suy yếu càng gia tăng, khi hai “ông lớn” Nokia và Samsung cùng lúc tấn công vào phân khúc hàng giá rẻ. Điều này đã kéo theo sự tụt dốc, và chết dần của hơn 50 thương hiệu điện thoại Trung Quốc - Việt Nam giống nhau về mẫu mã đã được bán phổ biến tại thị trường Việt Nam.
Thực tế, so về sức tiêu thụ, lẫn doanh thu, các dòng điện thoại có thương hiệu chưa thực sự đánh bại những sản phẩm mang thương hiệu Trung Quốc, hay mang “mác” Việt Nam vì giá rẻ.
Song về lâu dài, cuộc chiến về giá sẽ thay đổi nếu có sự tham gia của các nhà phân phối lớn mang tầm quốc tế. Hơn nữa, nếu các “ông lớn” đều làm một động thái như Samsung là đặt nhà máy sản xuất tại Việt Nam thì mức giá sẽ còn giảm hơn bây giờ.
Bởi vì, chi phí đầu vào đã giảm thiểu khi nhà sản xuất kết nối với người tiêu dùng chỉ thông qua kênh phân phối lẻ (thay vì phải qua nhà phân phối sỉ trước).
Tiên phong trong chuỗi cung ứng này phải nói đến Samsung. Theo đó, riêng tại TP.HCM, nhà sản xuất đã chọn vài “gương mặt tiêu biểu” như: Nguyễn Kim, Thế Giới Di Động, Phước Lập Mobile, Mai Nguyên, Viễn Thông A và Khương Việt (nhà phân phối lẻ địa phương, chịu trách nhiệm phân phối cho các đại lý nhỏ hơn).
Bằng cách này, Samsung có thể tạo mức giá tốt cho người tiêu dùng, đồng thời nâng cao thêm giá trị thương hiệu.
Trong khi Samsung đang tiến đến việc “nội địa hóa” kênh phân phối, thì RIM, nhà sản xuất điện thoại smartphone mang thương hiệu BlackBerry, lại đi theo hướng ngược lại.
Việc chọn Brightstar trở thành nhà phân phối ủy quyền chính thức của BlackBerry tại Việt Nam hồi tháng 10/2011 cũng đồng nghĩa với chuyện “chia tay” với nhà mạng Viettel.
Sở dĩ có sự thay đổi này cũng bởi Viettel quá chú trọng vào nhà mạng, thay vì tập trung phát triển sản phẩm BlackBerry tại thị trường Việt Nam.
Ảnh: Quý Hòa
Trong khi đó, nếu “ông lớn” Nokia hoàn tất việc xây nhà máy tại Bắc Ninh thì có khả năng sẽ xảy ra chuyện Nokia thay đổi ba nhà phân phối sỉ địa phương là FPT (phân phối lại cho các nhà bán lẻ: Thế Giới Di động, Viễn Thông A, Phước Lập Mobile); PetroSetco (phân phối lại cho Mai Nguyên, Nguyễn Kim...) và Lucky (phụ trách phân phối khu vực miền Tây).
Khi đó, thị trường phân phối càng thêm sôi động vì chắc chắn các nhà phân phối sỉ sẽ “không thể khoanh tay đứng nhìn”.
Lý do khiến Nokia quyết định thay đổi chiến lược phân phối có thể là do hãng gặp phải sự cạnh tranh lớn từ các hãng điện thoại khác tại thị trường Việt Nam, buộc hãng phải cơ cấu lại hệ thống phân phối để hoạt động hiệu quả hơn, tránh các cuộc cạnh tranh trực tiếp giữa chính các nhà phân phối.
Nokia sẽ hợp tác với các đối tác bán lẻ điện thoại tại Việt Nam có khả năng tài chính tốt, uy tín cao trên thị trường và có định hướng đầu tư kinh doanh lâu dài các sản phẩm và dịch vụ của hãng để xây dựng chuỗi cửa hàng Đối tác Nokia trên phạm vi toàn quốc.
Đến nay, Thế Giới Di Dộng, cùng với các nhà phân phối ĐTDĐ chính hãng có quy mô lớn khác là Viễn Thông A, Phước Lập Mobile, Viettel, FPT chiếm giữ 40% thị trường. Các nhà phân phối dòng cao cấp như Mai Nguyen Mobiado, Nhat Cuong Mobile nắm giữ 10%. Phần còn lại thuộc về thị trường hàng xách tay.
Tuy nhiên, theo ông Mai Triều Nguyên, năm 2011, viễn cảnh thị trường phân phối ĐTDD đã có nhiều chuyển biến.
Các thương hiệu lớn như Brightpoint, Brightstar đã bắt đầu thâm nhập vào thị trường Việt Nam thông qua việc đặt văn phòng đại diện, và có thể, họ sẽ “giành” luôn vị thế của các nhà phân phối địa phương như FPT (phân phối điện thoại HTC, Nokia); P&T Mobile (phân phối điện thoại Sony Ericsson, Motorola, Mobistar và HTC); Thành Công Mobile (phân phối điện thoại Philips)...
Bởi, hiện nay FPT cũng không thể mua điện thoại HTC trực tiếp từ nhà sản xuất, mà phải thông qua Brightpoint. Với cuộc “cách mạng” thay đổi nhà phân phối này, nguy cơ bị “đè bẹp” là điều mà các nhà phân phối địa phương khó tránh khỏi.
Chia lại thị trường
Trước viễn cảnh không mấy tốt đẹp đó, các nhà phân phối địa phương cũng bắt đầu cho chiến dịch “đối hướng” kinh doanh. Điển hình có FPT, thay vì cứ “yên vị” làm nhà phân phối sỉ, FPT cũng đang tập trung nhiều vào việc mở rộng các cửa hàng bán lẻ.
Gần đây nhất (đầu tháng 2/2012), FPT cũng đã công bố sẽ đẩy mạnh đầu tư phân khúc bán lẻ để nhắm tới mục tiêu phấn đấu trong lĩnh vực phân phối hàng điện tử, trong giai đoạn từ 2012-2014, sẽ chiếm 10% tổng số doanh thu của FPT Trading.
Ảnh: Quý Hòa
Trong đó, lĩnh vực phân phối và sản xuất các sản phẩm công nghệ có doanh thu 16.270 tỷ đồng. Còn doanh số từ phân phối và sản xuất nhóm sản phẩm ĐTDĐ là 9.387 tỷ đồng. Trên thực tế, sau khi vào thị trường năm 2007, FPT đã bắt đầu chuỗi bán lẻ với thương hiệu “FPT in Store”, nhưng chưa tạo được danh tiếng trên thị trường.
Trong khi đó, Thành Công Mobile (nhà phân phối độc quyền thương hiệu điện thoại Philips) thừa nhận, mở rộng hệ thống bán lẻ là khuynh hướng đúng theo chiến lược phát triển kinh doanh.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Bảo, Tổng giám đốc Thành Công, công ty này chỉ tham gia hệ thống bán lẻ nếu Nguyễn Kim, Thế Giới Di Động, Viễn Thông A lên sàn.
Khi đó, Thành Công sẽ tham gia vào hệ thống các nhà bản lẻ này như một cổ đông. Đó là chưa nói đến chuyện Thành Công Mobile đang đứng ở thế “phân phối độc quyền”, nên khó có chuyện các nhà phân phối ngoại chi phối.
Rõ ràng, trong cuộc đua đưa sản phẩm ra thị trường, các nhà phân phối dù sỉ hay lẻ đều chịu tác động từ chiến lược của các hãng sản xuất. Điều này, có thể nhìn thấy qua cơ cấu sản phẩm và cả cách tính toán mở rộng thị phần của các chuỗi bán lẻ.
Cụ thể như trường hợp của Viễn Thông A, dù thực tế, sức lan tỏa của dòng điện thoại cơ bản đang bị đe dọa bởi dòng smartphone, nhưng theo ông Bùi Văn Hòa, Phó tổng giám đốc Công ty Viễn Thông A, các dòng sản phẩm này vẫn đang cạnh tranh với nhau khá quyết liệt, ít nhất là từ 1 - 2 năm nữa mới đến hồi kết. Bởi vì, hiện tại, phân khúc này vẫn đang phục vụ cho nhu cầu số đông.
Do đó, Viễn Thông A sẽ phân phối theo sản phẩm hình thức “đa dạng hóa” từ thấp đến cao. Tuy nhiên, trong năm qua, Viễn Thông A cũng đã thực sự gia tăng tỷ trọng và đa dạng hóa các chủng loại smartphone trong toàn hệ thống.
Hơn nữa, việc hợp tác với nhà bán lẻ Nhật Bản TD Mobile cũng sẽ giúp cho Viễn Thông A “chuẩn hóa” quy trình vận hành của chuỗi, đồng thời, gia tăng số cửa hàng mới lên 150% trong năm nay.
Riêng với trường hợp của Thế Giới Di Động (nhà phân phối lẻ đang chiếm đến 20% thị phần), cho biết, năm 2012, họ sẽ “chấm dứt” phát triển thêm mạng lưới. Đây sẽ là cơ hội cho nhiều nhà phân phối sỉ “đổi hướng”.
Tuy nhiên, theo ông Đinh Anh Huân, để vận hành chuỗi bán lẻ phải còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: từ cách bán hàng, giao hàng, vận hành nhân sự, hàng hóa vận chuyển, thị trường mỗi nơi mỗi khác.
Bởi, bán lẻ điện thoại không chỉ là bán sản phẩm mà còn bán dịch vụ. Riêng đối với dòng smartphone còn liên quan đến hỗ trợ cài đặt phần mềm, tư vấn khách hàng đó là mục tiêu mà càng chuỗi bán lẻ không thể bỏ qua.

Tìm hiểu câu chuyện người Việt ở Mỹ dựa vào gia đình để phát tài

Một người trở về khác là Mike Nguyen, 42 tuổi, tốt nghiệp đại học California-Davis và có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh, đã xin thôi việc ở Bay Area để tiếp quản công việc của cha mình về chuyển phát nhanh. Trong bốn năm, Nguyen tăng gấp ba không gian và doanh số của cửa hàng, nay cửa hàng của anh thu hút được khách hàng của mọi chủng tộc.
Trong thời khủng hoảng kinh tế, nhiều người Việt đã bỏ việc ở các hãng về tiếp quản công việc kinh doanh của gia đình, hỗ trợ nhau trong cộng đồng và nhờ thế vượt qua những khó khăn một cách dễ dàng hơn.
Helen Trinh, 40 tuổi, là chủ cửa hiệu váy cưới Phuong Trinh ở Little Vietnam Plaza, một trong 8 trung tâm thương mại sầm uất của người Việt tại Little Saigon ở quận Sacramento, bang California. Cô bắt đầu điều hành cửa hàng của mẹ mình từ năm 2007.
"Mẹ tôi có phong cách thời trang cũ, còn tôi muốn thêm nhiều các thiết kế mới, mẫu mã mới và tôi thông thạo tiếng Anh, nên tôi có thể giao lưu với nhiều người hơn", Trinh nói."Bây giờ, chúng tôi cung cấp nhiều các dịch vụ đám cưới hơn", cô kể về cửa hàng của mình với dịch vụ cung cấp áo dài, vest và nhiều dịch vụ khác cho các khách hàng gốc Việt.
Bây giờ, cửa hàng phục vụ 50 đám cưới một năm, 40% trong số đó là các đám cưới thuần Việt với áo dài và khăn đóng cho các cô dâu, 60% còn lại là các khách hàng gốc Hoa và một số ít đến từ các nước khác.
Rất nhiều các chủ doanh nghiệp trong đó có Trinh và gia đình cô đã từ các thành phố ở khu Bay Area để đến Little Saigon tìm nhà giá rẻ hơn và các cơ hội kinh doanh tốt hơn.
Một người trở về khác là Mike Nguyen, 42 tuổi, tốt nghiệp đại học California-Davis và có bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh, đã xin thôi việc ở Bay Area để tiếp quản công việc của cha mình về chuyển phát nhanh. Trong bốn năm, Nguyen tăng gấp ba không gian và doanh số của cửa hàng, nay cửa hàng của anh thu hút được khách hàng của mọi chủng tộc.
Ở cửa hàng đồ cưới, Trinh và mẹ của mình, bà Nhon Le, cùng làm việc. Bà Le bán đồ mỹ phẩm, vitamin và làm một chút công việc may vá. "Tôi không có đủ sức khỏe để để làm công việc thiết kế và cho ra những mẫu mới nên nhường lại cho con tôi", Le nói.
Hàng xóm của Trinh và bà Le là Scoot Truong, cũng đã rời San Jose sáu năm về trước để trông coi việc kinh doanh ở quán Huong Sen Tofu của gia đình. Truong nói: "Bây giờ cuộc sống tốt hơn nhiều, những người kinh doanh ở đây có thể hỗ trợ lẫn nhau".
Một người khác cũng di cư khỏi San Jose là Phung Co, quản lý cửa hàng đã 25 năm tuổi của gia đình mình, tập đoàn thẩm mỹ My Le. Co tự hào nói: "Chúng tôi có những thiết bị hiện đại với kỹ thuật mới, chúng tôi được giải thoát khỏi mùi hóa chất kinh khủng".
Little Saigon dường như là một lựa chọn đúng đắn với 2.000 người Việt sinh sống với hơn 100 nhà hàng và 6 siêu thị lớn nằm dọc suốt hơn 3 km ở đại lộ Stockton, và cộng đồng người Việt là cộng đồng người gốc Á lớn thứ tư tại quận Sacramento.
Có tới 75% số người Việt ở khu vực này đã có quốc tịch Mỹ, cao hơn nhiều so với cộng đồng người gốc Á khác. Và điều kiện kinh tế đi lên cũng giúp cho tỷ lệ phạm tội tại Little Saigon giảm xuống. Trong năm ngoái, chỉ có 39 người bị bắt vì tội trộm cắp, trong con số này năm 2007 là 61 người.
"Văn hóa truyền thống giúp chúng tôi biết được rằng mình luôn có thể dựa vào gia đình, nhất là trong những thời điểm khó khăn như hiện tại, nên chúng tôi quyết định về sinh sống cùng bố mẹ", Mai Nguyen, giám đốc văn phòng thương mại của người Mỹ gốc Việt tại Sacramento, cho biết.
Ngoài ra, Litte Saigon còn có hai tờ tuần san tiếng Việt, mỗi số phát hành dày hơn 250 trang và tràn ngập quảng cáo. Một trong hai tờ tuần san đó là "Lang", ra đời cách đây 11 năm, phát hành 5.000 cuốn ở Sacramento và 2.000 ở Stockton và Modesto.
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế, tạp chí "Lang" bị mất nhiều quảng cáo về bất động sản, nhà hàng và đồ nội thất nhưng "tờ tạp chí sống sót nhờ vào sự ủng hộ của cộng đồng", Tam Nguyen, người sáng lập ra tạp chí "Lang" nói.
Dựa vào sự đùm bọc và hỗ trợ của gia đình, cộng đồng, trong thời điểm suy thoái kinh tế, chỉ có 10% trong số 750 doanh nghiệp của người Việt ở Litte Saigon là không có việc làm, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tại các khu vực khác ở Sacramento.
Để đạt được thành công như ở Little Saigon, Thuc Bui, một người Việt thế hệ thứ hai, phát triển thành công sự nghiệp kinh doanh của gia đình, nói: "Sự thành công nhờ vào cả hai thế hệ, nhờ vào thành tích học tập của thế hệ trẻ và sự hy sinh của thế hệ cha mẹ".
Thuc Bui ở cùng với cha. Trong nhà anh có hai chiếc TV màn hình lớn, một chiếc để anh xem tin tức và thể thao. Còn chiếc kia lớn hơn, 56 inches, để dành cho cha anh hàng ngày chăm chú xem các chương trình tiếng Việt.
Còn ông Nghia Bui, cha của anh, rất tự hào vì con trai của mình tốt nghiệp đại học California-Berkeley và trở về xây dựng Little Saigon. Ông cho biết đã chứng kiến nhiều sự thay đổi ở đây, mọi người ngày nay có công việc tốt, kinh doanh phát đạt, trường học tốt, an ninh đảm bảo, làm ông cảm thấy hạnh phúc.

Chia sẻ cùng bạn: Năm thử thách đối với doanh nghiệp gia đình

Quá câu nệ thứ bậc gia đình trong điều hành quản lý doanh nghiệp, điều đó tạo hình ảnh người chủ bạc nhược yếu kém trước mặt thuộc cấp và với khách hàng, và nghiêm trọng hơn nữa ảnh hưởng đến khả năng đưa ra các quyết định quan trọng trong những thời điểm nhạy cảm. Mặt khác, nếu người chủ tỏ ra cứng rắn, có thể bị hiểu lầm là lạnh lùng và khó gần. Cứng nhắc với các thành viên gia đình (family employee) dễ làm tổn thương mối quan hệ trong gia đình.
Theo một thống kê không chính thức của Viện nghiên cứu kinh tế gia đình của Mỹ (Family Business Institute), dưới 10% doanh nghiệp gia đình thành công trong việc truyền cơ nghiệp đến thế hệ thứ ba. Thực tế mà nói, rất nhiều doanh nghiệp gia đình tại châu Á còn không thể giữ vững và lụi tàn ngay trong thế hệ thứ hai sau khi người khởi nghiệp mất đi hoặc không đủ sức khỏe đứng mũi chịu sào.
Nhìn qua các mã blue-chip tạo nên chỉ số VN-Index trên sàn HoSE, ta dễ dàng tìm ra những người chủ của các doanh nghiệp trên tham gia điều hành đều xuất phát từ quan hệ gia đình, cụ thể như anh em nhà họ Phạm trong lĩnh vực bất động sản, các thành viên gia đình họ Đặng trong lĩnh vực ngân hàng, anh em nhà họ Đặng khu công nghiệp Tân Tạo.Vận hội mới, thử thách mới

Nhìn lại chặng đường đổi mới đất nước Việt Nam đã đi qua hơn 25 năm đem lại những thành công đáng kể cho rất nhiều công ty gia đình. 

Dù chưa được nghiên cứu đầy đủ, một điều dễ nhận thấy rằng các doanh nghiệp tư nhân, mà phần đông là các doanh nghiệp gia đình đã đang đóng góp một phần không nhỏ trong việc thúc đẩy phát triển đất nước.

Hội nhập toàn cầu mở ra cơ hội phát triển doanh nghiệp chưa từng có tiền lệ, cũng những cơ hội đầu tư đa dạng hóa, cổ phần hóa, tiếp cận nguồn vốn đầu tư từ trong và ngoài nước.
Nhưng, ngược lại, chính điều đó cũng đem đến không ít rủi ro tiềm ẩn sự xuất hiện cạnh tranh của các đối thủ mới, khả năng bị thâu tóm (hostile takeover) và sáp nhập (acquisition).

Và từ đó, bắt đầu phát sinh những thử thách quan trọng đối với các doanh nghiệp trong gia đình đã được các nhà nghiên cứu thế giới đúc kết.

Các mâu thuẫn trong gia đình

Gần đây nhất là câu chuyện chủ tịch của Tập đoàn Samsung Electronics, ông Lee Kun-hee hiện là người giàu nhất Hàn Quốc với tổng tài sản 9,3 tỉ USD.
Không chỉ riêng mình Lee Kun-hee, mà toàn bộ anh chị em của ông này cũng giàu không kém, đưa tên tuổi nhà họ Lee góp phần trong danh sách những gia đình giàu nhất châu Á.
Tuy nhiên, ông Lee Kun-hee đang bị chính những người anh chị của mình đưa ra tòa trong một cuộc chiến tranh giành tài sản, với trị giá lên tới hàng trăm triệu USD.
Dù là vì lý do gì đi nữa, mâu thuẫn nội bộ các thành viên trong gia đình sẽ sinh ra bè phái trong công ty, tạo ra môi trường không lành mạnh làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty.

Nâng đỡ vì máu mủ

Quản lý gia đình là vấn đề nhạy cảm, nhưng đừng quên rằng doanh nghiệp gia đình sẽ khó bền vững nếu được xây dựng trên việc nâng đỡ máu mủ, người thân.
Thuê mướn, thăng chức và trả lương dựa trên quan hệ gia đình gần xa, mà không dựa trên thành tích công việc hay khả năng là điều tối kỵ.
Không sớm thì muộn, các nhân viên trong công ty sẽ mất lòng tin vào người chủ, họ cũng đánh mất đi động lực để phấn đấu, năng suất lao động sẽ giảm sút đáng kể.

Cân bằng trong ứng xử gia đình - công việc

Quá câu nệ thứ bậc gia đình trong điều hành quản lý doanh nghiệp, điều đó tạo hình ảnh người chủ bạc nhược yếu kém trước mặt thuộc cấp và với khách hàng, và nghiêm trọng hơn nữa ảnh hưởng đến khả năng đưa ra các quyết định quan trọng trong những thời điểm nhạy cảm.
Mặt khác, nếu người chủ tỏ ra cứng rắn, có thể bị hiểu lầm là lạnh lùng và khó gần. Cứng nhắc với các thành viên gia đình (family employee) dễ làm tổn thương mối quan hệ trong gia đình.

Thật không may, trong hầu hết các doanh nghiệp gia đình thường cũng hạn chế cơ hội thăng tiến, vì các thành viên gia đình chiếm tất cả các vị trí lãnh đạo trong công ty.Điều cần nhất là xác định sự cân bằng về cảm xúc cần thiết dựa trên sự năng động của môi trường kinh doanh của bạn.

Mất các nhân viên không thuộc gia đình

Có hai lý do các doanh nghiệp thường gặp khó trong việc giữ chân nhân viên không phải là thành viên gia đình: cơ hội thăng tiến hạn chế và các xung đột gia đình. Hầu hết các nhân viên muốn thăng tiến trong công ty.
Nếu không có cơ hội để thăng tiến hoặc về vai trò lãnh đạo, nhân viên tài năng và đầy tham vọng sẽ khó gắn bó lâu dài.

Là một chủ doanh nghiệp, bạn cần phải nhận ra rằng mỗi doanh nghiệp phát triển cần nguồn nhân lực dồi dào. Những nhân viên không thuộc gia đình mang lại yếu tố cân bằng cho tổ chức vì lẽ họ đánh giá hiệu quả kinh doanh không dựa trên tình cảm.
Không nhận ra tác động tích cực của các nhân viên không thuộc thành viên gia đình là một sai lầm rất lớn.

Hổ phụ sinh… khuyển tử

Trở lại chuyện “cha truyền con nối”, lịch sử của nước Việt Nam ta cũng đủ chứng tỏ rằng chuyện vua cha truyền cho con không phải là một việc đơn giản.
Vua Lê Đại Hành, vị vua mở đầu cho nhà Tiền Lê của lịch sử Việt Nam và là người đã oai hùng phá Tống, đã để lại ngôi vua cho con là ông vua nổi tiếng bạo ngược nhất trong lịch sử Việt Nam - Lê Long Ðĩnh.
Triều Lý do tướng quân hào kiệt Lý Công Uẩn lập nên cũng được coi là một thời đại vàng son hoa gấm của dân tộc, nhưng theo chế độ cha truyền con nối để rồi cuối cùng đến tay Lý Chiêu Hoàng thơ dại, yếu đuối và sau cùng mất vào tay nhà Trần.
Triều đại nhà Hậu Lê do Lê Lợi sáng lập nên sau khi trải qua 10 năm gian khổ đánh giặc Minh, đã để lại một hậu duệ là một ông vua bị nguyền rủa muôn đời là Lê Chiêu Thống, mang một vết nhơ “cõng rắn cắn gà nhà” không bao giờ rửa sạch.

Đánh giá đúng thực lực và chọn thời điểm chuyển giao thích hợp sẽ mãi là nỗi trăn trở của các doanh nghiệp gia đình và các bậc doanh nhân khởi nghiệp, và cũng là trăn trở chung của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển sắp tới.

“Sếp” ở nhà và “sếp” ở công ty

Chưa đến 30 tuổi, Trịnh Chí Cường được đặt vào ghế Tổng giám đốc của Công ty nhựa Đại Đồng Tiến. Chàng con trai cả của người sáng lập công ty này đã phải trải qua nhiều chuyện “nhức cái đầu” khi xung quanh mình toàn là những người mình gọi bằng chú, bằng bác, vì đã theo cha anh lập nghiệp từng mấy mươi năm trước.
Và dù là Tổng giám đốc, Trịnh Chí Cường vẫn không nắm trọn quyền vì rất nhiều “người cũ” thích “đi cửa sau” với ông chủ tịch để giải quyết mọi thứ theo lề lối cũ, nhanh và thuận lợi hơn, dù quy định mới đã có rất rõ ràng.

Cường cho biết, chỉ mỗi một chuyện tưởng chừng nhỏ xíu, là cách xưng hô, cũng phải mất khá nhiều thời gian để giải quyết.
Cuối cùng, anh ra phương án: ba mẹ thì gọi bằng “sếp”, còn mọi người trong công ty, cho dù là cô dì chú bác gì cũng đều xưng tôi là tôi và các anh chị.
Và anh không giấu cảm giác khó khăn khi phải làm quen và để mọi người làm quen với một nề nếp mới như thế trong công ty, bắt đầu từ cách xưng hô.

Trả lời cho câu hỏi: Hợp tác hay thôn tính?

Theo ông Nguyễn Quốc Bảo: “Chúng tôi thấy rằng, việc liên minh không chỉ cho phép danh tiếng của chúng tôi tốt hơn, mà còn giúp chúng tôi nâng cấp kiến thức, chuẩn mực quốc tế cũng như khả năng nhạy cảm với các thay đổi trên thế giới để có các chiến lược kinh doanh phù hợp. Chúng tôi không sáp nhập vì khi đó sẽ phải chịu sự điều phối của bên mua, trong khi chúng tôi muốn đảm bảo rằng chiến lược PR phải được hoạch định từ thị trường Việt Nam và phải thực hiện theo thấu hiểu của người Việt”. 
Những cái tên lớn hơn xuất hiện

Mở đầu cho những hợp tác giữa công ty PR trong nước và nước ngoài là TBWA Group (thuộc Omnicom Group) với Công ty Quảng cáo Chăm sóc Thương hiệu (BCI Brandcare) lập nên Công ty TBWA Việt Nam vào năm 2008.
Sau gần một năm tìm hiểu và sàng lọc thông tin về các đối tác tiềm năng, cuối cùng, cái tên Biz Solutions đã lọt vào tầm ngắm của TBWA và cuộc mua bán cổ phần giữa TBWA và Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Biz Solutions tạo thành một thương hiệu mới Biz Tequila.
Cùng lúc này, người anh em của TBWA là Omnicom Media Group lập một liên doanh khác với Công ty Quảng cáo và Truyền thông (XPR Campaigns), dưới tên gọi Campaigns Solutions.
Cùng thời điểm, GroupM thuộc WPP đã mua 30% cổ phần của Tập đoàn Đất Việt VAC. Đầu năm 2009, WPP trở thành cổ đông của Smart Media, một công ty truyền thông, quảng cáo được sáng lập bởi các doanh nghiệp (DN) nhà nước lớn như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Công ty Thông tin Di động Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính Việt Nam và Công ty Quảng cáo Goldsun... 

Mới đây, trên thị trường PR lại thêm một thương vụ sáp nhập lớn giữa Công ty Tiếp thị truyền thông AVC và Công ty Edelman (Mỹ). Mặc dù việc đầu tư còn đang chờ cấp phép của Chính phủ Việt Nam nhưng công ty mới dự kiến sẽ hoạt động với tên gọi AVC Edelman.
Ông Richard Edelman, Chủ tịch Tập đoàn kiêm Giám đốc Điều hành của Edelman cho biết: “Lý do Edelman lựa chọn AVC để đầu tư thay vì thành lập DN 100% vốn nước ngoài là do các khách hàng của Edelman là những công ty đa quốc gia đã có mặt tại Việt Nam đòi hỏi phải có ngay dịch vụ tại thị trường này”. AVC Edelman kỳ vọng ngay trong năm đầu hợp tác, doanh thu cũng sẽ tăng từ 25 - 30%.

Cũng bằng cách sáp nhập, các tập đoàn truyền thông quốc tế không chỉ rút được con đường để thâm nhập thị trường Việt Nam, tiết kiệm được thời gian và chi phí mà còn có điều kiện thuận lợi để thực hiện chiến lược gia tăng ảnh hưởng tại các thị trường châu Á như Trung Quốc, Thái Lan...
Theo đại diện TBWA, thị trường quảng cáo Việt Nam là một trong ba thị trường trọng điểm của TBWA, cùng với Trung Quốc và Ấn Độ.
Vì vậy, đây là cách tốt nhất để TBWA có thể nhanh chóng mở rộng hoạt động tại thị trường Việt Nam, thiết lập được “hệ thống hạ tầng” tương đối hoàn chỉnh, cũng như tận dụng lợi thế khách hàng địa phương có sẵn, hiểu biết văn hóa và thói quen người bản địa của Biz Solutions ở Việt Nam. 

Ông Bùi Ngọc Anh, Giám đốc AVC, cho biết: “Nếu tiếp tục điều hành AVC một mình, tôi khó tạo ra sự đột phá, khó tạo ra thành công lớn cho công ty. Vì vậy, việc hợp tác này sẽ giúp AVC nâng cao tính chuyên nghiệp và nhất là đóng góp phát triển được ngành công nghiệp PR đang còn rất non trẻ của Việt Nam".

Nỗi lo “cá mập”


Tuy sáp nhập có nhiều lợi thế nhưng cũng có không ít ý kiến quan ngại về việc hợp tác với nước ngoài khiến các công ty trong nước sẽ bị lép vế hơn, bị mất quyền tụ chủ và có nguy cơ bị thôn tính hoặc bị kiểm soát chặt chẽ. Có lẽ vậy mà Công ty Awareness id đã chọn phương án liên minh thay vì sáp nhập mua bán.
Theo ông Nguyễn Quốc Bảo: “Chúng tôi thấy rằng, việc liên minh không chỉ cho phép danh tiếng của chúng tôi tốt hơn, mà còn giúp chúng tôi nâng cấp kiến thức, chuẩn mực quốc tế cũng như khả năng nhạy cảm với các thay đổi trên thế giới để có các chiến lược kinh doanh phù hợp. Chúng tôi không sáp nhập vì khi đó sẽ phải chịu sự điều phối của bên mua, trong khi chúng tôi muốn đảm bảo rằng chiến lược PR phải được hoạch định từ thị trường Việt Nam và phải thực hiện theo thấu hiểu của người Việt”. 
Nhiều công ty cũng lo ngại thực chất các cuộc hợp tác, sáp nhập là mua lại cổ phần, và do thế mạnh về tài chính, đa số các công ty nước ngoài sẽ nắm quyền điều hành, ngoài việc yêu cầu mình phải báo cáo rất mất thời gian, các công ty này còn yêu cầu người đứng đầu DN phải làm việc trong liên doanh từ 3-5 năm mới trả hết tiền.
Mặt khác, ở lĩnh vực quảng cáo, các công ty nước ngoài sẽ đảm bảo cho khách hàng ở nước ngoài của họ làm việc với đối tác trong nước, nhưng ở lĩnh vực PR thì không như vậy.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Mạnh Tường, Tổng giám đốc Công ty Max Communication, cũng cho rằng: “Thực ra, cách đây ba năm, Max Communication cũng đã có kế hoạch hợp tác với một tập đoàn nước ngoài, nhưng sau khi khủng hoảng ở Mỹ xảy ra, hợp tác này ngưng lại, và sau nhiều suy tính, thậm chí ngay cả khi thị trường khó khăn, tôi cũng không có ý định sẽ tiếp tục”. 

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng thị trường PR còn nhiều lĩnh vực chưa khai thác. Vì vậy, các công ty PR muốn khác biệt và có dịch dụ độc đáo thì phải nâng cấp. Và việc hợp tác chính là con đường ngắn nhất để các công ty lớn hơn, phát triển hơn.
Khi làm việc với các công ty nước ngoài khe khắt hơn rất nhiều, sẽ giúp dịch vụ của các công ty trong nước được nâng cao và chuyên nghiệp hơn. 

Ông Nguyễn Thanh Sơn, Tổng giám đốc T&A Ogilvy, lại cho rằng: “Sau khi T&A và Ogilvy hợp tác, trong hai năm rưỡi, mức tăng trưởng đã tăng hơn 2,5 lần so với trước. Trong tình hình mới, chiến lược chính của chúng tôi là tập trung phát triển hiểu biết về thị trường một cách tốt hơn, tận dụng những ngành truyền thông mới phát triển như truyền thông xã hội, truyền thông kỹ thuật số”.
Cùng quan điểm này, ông Ngọc Anh cũng khẳng định: “Khi đã sáp nhập, tôi chấp nhận mọi ràng buộc, miễn sao đứa con thương hiệu mới của chúng tôi tốt hơn, chuyên nghiệp và đẳng cấp hơn. Và theo tôi, mục tiêu cao hơn của các cuộc hôn phối này là tạo đà cho ngành công nghiệp PR ở Việt Nam phát triển một cách chuyên nghiệp hơn”.

Tìm hiểu về một số “điểm chết” của ngành công nghiệp ô tô

Nguyên nhân là các nhà cung cấp Việt Nam vẫn chưa năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, chưa tự tin và chưa hình thành khái niệm xây dựng quan hệ “hai bên cùng có lợi” trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc công nghiệp hỗ trợ vẫn sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao do công nghệ lạc hậu.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng số doanh nghiệp sản xuất ô tô trên lãnh thổ Việt Nam tính hết năm 2010 là 314 doanh nghiệp. Số lượng các doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm tỉ trọng cao nhất (52%), tiếp theo là doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (42%). Số lượng doanh nghiệp Nhà nước chỉ chiếm 6%.
Công suất thiết kế đạt khoảng 458.000 xe/năm nhưng thực tế sản xuất cho thấy, các nhà máy sản xuất ô tô mới chỉ huy động khoảng 50% công suất thiết kế.
Bà Lê Thị Hải Vân – Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết: Nhìn chung trình độ công nghệ và thiết bị của các doanh nghiệp sản xuất ô tô nước ta ở mức trung bình và lạc hậu. Cái gọi là công nghệ hiện nay chỉ dừng lại ở việc hàn – sơn – lắp ráp và kiểm tra sản phẩm.
Trong khi đó, công nghiệp phụ trợ vừa yếu lại vừa méo mó, không đồng bộ. Đến nay, cả nước có khoảng trên 210 doanh nghiệp tham gia sản xuất các loại linh kiện, phụ tùng ô tô, tạo việc làm cho 26.163 lao động. Nhưng vẫn chỉ dừng lại ở những linh kiện đơn giản như gầm xe, thùng xe, săm lốp, bộ tản nhiệt, hệ thống dây điện, nhíp lò xo, ống xả, hộp số, vô lăng…
Xét cho cùng, đầu tư vào sản xuất linh kiện ô tô còn mang tính nhỏ lẻ, sản phẩm làm ra ít cả về chủng loại lẫn sản lượng. Hàng năm, ngành công nghiệp ô tô vẫn phải nhập khẩu khoảng 2 tỉ USD linh kiện.
Một số doanh nghiệp FDI cũng đã xâm nhập thị trường sản xuất linh kiện ô tô của Việt Nam và sản xuất để khẩu chừng 1,5 tỉ USD linh kiện. Đó là một nghịch lý của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Theo các dự báo đến năm 2025, mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra 12 tỉ USD để nhập khẩu ô tô nếu ngành công nghiệp ô tô vẫn cứ mãi tình trạng phát triển èo uột như hiện nay. Đến năm 2014, thuế suất thuế nhập khẩu ô tô từ khu vực các nước ASEAN (AFTA) sẽ giảm xuống còn 50%, và tới 2018 chỉ còn 0%. Như vậy, các doanh nghiệp Việt sẽ chống chọi ra sao với thực trạng ô tô ngoại nhập ồ ạt vào Việt Nam?
Hiện tại, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được cho là kém phát triển với 80% linh kiện phục vụ cho lắp ráp xe vẫn phải nhập khẩu. Thị trường ô tô có quy mô nhỏ, khoảng 150.000 xe/năm.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an, đến hết năm 2010, tổng lượng xe ô tô lưu hành trên cả nước là 1,63 triệu chiếc. Như vậy, thị trường ô tô của Việt Nam còn tiềm năng rất lớn. Nhưng thực chất thì ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa có doanh nghiệp sản xuất lớn tầm cỡ khu vực và xuất khẩu.
Theo như quy hoạch, Việt Nam đặt ra chỉ tiêu nội địa hóa các loại ô tô tối thiểu là 50%. Tuy nhiên khi thực hiện, tỉ lệ nội địa hóa đối với xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi chỉ đạt dưới 15% – một con số quá thấp để có cơ sở phát triển một ngành công nghiệp ô tô.
Tỉ lệ nội địa hóa với các phương tiện khác như xe khách trên 10 chỗ ngồi và xe chuyên dùng đạt từ 30 – 40%, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với quy hoạch là 60%.
Nguyên nhân là các nhà cung cấp Việt Nam vẫn chưa năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, chưa tự tin và chưa hình thành khái niệm xây dựng quan hệ “hai bên cùng có lợi” trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc công nghiệp hỗ trợ vẫn sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao do công nghệ lạc hậu.
Do vậy, luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như thời hạn giao hàng của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp Việt Nam.
Về việc liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam trong công nghiệp ô tô vẫn là một mối liên kết lỏng lẻo và thiếu thống nhất. Một cuộc khảo sát 23 doanh nghiệp FDI trong sản xuất ô tô năm 2010 do Cục Đầu tư nước ngoài phối hợp với Tổng cục Thống kê và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì cho kết quả: 6/23 doanh nghiệp không mua nguyên liệu đầu vào từ các nhà cung cấp Việt Nam.
Chỉ có khoảng 15% nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp FDI là từ các sản phẩm được sản xuất bởi các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, tỉ lệ nội địa hóa của các sản phẩm ô tô của Việt Nam hầu như chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến ngành công nghiệp ô tô vẫn phải phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài, thị trường ô tô trong nước vẫn tràn ngập ô tô nhập khẩu hoặc ô tô mang thương hiệu Nhật, Hàn, Đức…

Chia sẻ cùng bạn việc Tàu biển “đói” đơn hàng

Nguyên nhân là do tình trạng kỹ thuật kém, trình độ, kinh nghiệm, khả năng chuyên môn và ngoại ngữ của thuyền viên Việt Nam còn hạn chế nên thực hiện các quy định của Bộ Luật Quản lý an toàn quốc tế còn mang tính hình thức và đối phó. Thậm chí, còn có hiện tượng thuyền viên bị kỷ luật vẫn kiếm được việc làm trên một tàu khác.
Sau thời kỳ đua nhau sắm tàu “triệu đô” trong những năm 2003-2007, hiện doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam rao bán tàu để cải thiện tình hình tài chính.
Việt Nam là nước xuất khẩu nhưng đội tàu biển lại luôn ở trong tình trạng thừa trọng tải, thiếu hàng hóa. Bản thân các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam sau thời kỳ ăn nên làm ra khi đất nước mới hội nhập lại rơi vào tình cảnh phải rao bán tàu để giảm lỗ.
“Đuối” ngay trên sân nhà
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, từ năm 2009 đến nay, đội tàu biển Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ về khối lượng trọng tải với tốc độ tăng bình quân 20%/năm.
Đến nay, đội tàu Việt Nam có hơn 1.880 chiếc với tổng trọng tải khoảng 8,4 triệu tấn, xếp vị trí 60/152 thế giới và xếp thứ 4 trong khối ASEAN (xét về trọng tải). Tuy vậy, việc tăng nhanh về trọng tải lại không kéo theo sự gia tăng tương ứng về thị phần.

Thị phần còn lại rơi vào tay đội tàu nước ngoài, phần vì đội tàu nước ngoài có tính cạnh tranh cao, thể hiện ở sức mạnh tài chính dồi dào và kinh nghiệm hoạt động hàng hải nhiều năm; phần vì chính sự yếu kém nội tại của đội tàu trong nước.Năm 2000, đội tàu biển Việt Nam chiếm hơn 15% thị phần vận tải hàng hóa cả nước, nhưng đến nay, dù được đầu tư lớn hơn về số lượng, thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu của đội tàu Việt Nam vẫn chỉ ở mức 15%-20%.
Bên cạnh đó, thói quen mua CIF bán FOB (mua hàng tại cảng đến, bán tại cảng đi) của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước cũng là nguyên nhân khiến đội tàu biển Việt Nam “đói” đơn hàng.
Hơn nữa, việc hiện có hơn 40 hãng tàu biển treo cờ nước ngoài được phép vận tải trong nội địa Việt Nam cũng là nguyên nhân khiến tình trạng thiếu đơn hàng thêm trầm trọng.
Do vậy, sau thời kỳ đua nhau sắm tàu “triệu đô” trong những năm 2003-2007, hiện doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam rao bán tàu để cải thiện tình hình tài chính cho doanh nghiệp.
Thiếu tính cạnh tranh
Một vấn đề khác đang làm đau đầu cả chủ tàu và cơ quan quản lý là đội tàu biển Việt Nam luôn ở trong "danh sách đen" của Tổ chức Hợp tác Kiểm tra nhà nước tại các cảng biển khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Tokyo MOU).
Năm 2010, lần đầu tiên đội tàu Việt Nam thoát khỏi danh sách này của Tổ chức Tokyo MOU do có tỉ lệ tàu bị bắt giảm. Nhưng đến năm 2011, số lượng tàu biển treo cờ Việt Nam bị bắt giữ ở nước ngoài lại tăng.
Nguyên nhân là do tình trạng kỹ thuật kém, trình độ, kinh nghiệm, khả năng chuyên môn và ngoại ngữ của thuyền viên Việt Nam còn hạn chế nên thực hiện các quy định của Bộ Luật Quản lý an toàn quốc tế còn mang tính hình thức và đối phó. Thậm chí, còn có hiện tượng thuyền viên bị kỷ luật vẫn kiếm được việc làm trên một tàu khác.
Cục Hàng hải Việt Nam đánh giá, việc tàu bị lưu giữ không chỉ gây thiệt hại về tài chính và uy tín của từng chủ tàu mà còn gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín đội tàu, giảm tính cạnh tranh trên thị trường hàng hải quốc tế.
Lãnh đạo một doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cho biết đây cũng là nguyên nhân khiến chính “người nhà” chưa đủ tin tưởng thuê tàu trong nước, ngay cả khi được ưu đãi ký hợp đồng giá CIF thấp hơn so với tàu quốc tế.
Nhiều doanh nghiệp ngại rằng nếu chẳng may bị lưu giữ ở nước ngoài, hàng hóa sẽ bị hư hỏng hoặc chậm giao hàng cho đối tác, cho dù có được bảo hiểm về thiệt hại kinh tế thì cũng ảnh hưởng đến uy tín vì giao hàng chậm.

Tìm hiểu sự việc kinh doanh ở chợ: Hàng ngoại án ngữ mặt tiền

Khẳng định điều này, bà Nguyễn Thanh Hằng, tiểu thương bán hàng tạp hóa ở chợ Tân Định (Q.1), cho biết: “Bên cạnh các hoạt động khuyến mãi thường xuyên, chiết khấu cao, những nhãn hàng như Unilever, P&G, Nestle... còn có chính sách trả phí trưng bày cho người bán rất rõ ràng và lâu dài. Cụ thể, chỉ cần tiểu thương đặt đúng số lượng hàng, vị trí sẽ được trả từ 300.000 - 500.000 đ/tháng, tùy từng nhãn hàng. Ngoài ra, khi bán được nhiều hàng, tiểu thương còn được hưởng mức chiết khấu cao cộng với tiền thưởng trên doanh số bán được”.
Thương hiệu lớn chắn sạp

Là một thương hiệu nước mắm có hơn trăm năm tuổi nhưng Liên Thành rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các nhãn hiệu nước mắm của các DN liên doanh. Tại hệ thống các siêu thị, Liên Thành chỉ chiếm thị phần khiêm tốn và ở các chợ cũng thế.
Trước sự lấn át của các nhãn hiệu lớn, năm 2009, Liên Thành đã thuê Công ty phân phối Sao Việt để đẩy mạnh tiêu thụ hàng vào các chợ. Thế nhưng, chỉ hơn một năm, hợp tác đã tan rã vì dù đã làm hết sức nhưng Liên Thành vẫn không thể địch nổi với các nhãn hiệu mạnh như Chinsu, Nam Ngư, Knorr...
Bà Ngô Thị Hoàng Mai, Phó giám đốc Công ty CP Chế biến thủy hải sản Liên Thành, cho biết: “Cái khó của chúng tôi là không đủ kinh phí để thực hiện chiến dịch quảng bá, truyền thông rầm rộ như các tập đoàn vốn có tài lực mạnh như Masan, Acecook”. 

Một doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực bánh kẹo cho rằng, kinh doanh ở chợ nhìn có vẻ im ắng nhưng thực sự đó là một đấu trường hết sức gay cấn. Các DN “chiến đấu” để giành từng centimet trưng bày hàng hóa, và dĩ nhiên chiến thắng phần nhiều thuộc về các tập đoàn nước ngoài. 

Khẳng định điều này, bà Nguyễn Thanh Hằng, tiểu thương bán hàng tạp hóa ở chợ Tân Định (Q.1), cho biết: “Bên cạnh các hoạt động khuyến mãi thường xuyên, chiết khấu cao, những nhãn hàng như Unilever, P&G, Nestle... còn có chính sách trả phí trưng bày cho người bán rất rõ ràng và lâu dài. Cụ thể, chỉ cần tiểu thương đặt đúng số lượng hàng, vị trí sẽ được trả từ 300.000 - 500.000 đ/tháng, tùy từng nhãn hàng. Ngoài ra, khi bán được nhiều hàng, tiểu thương còn được hưởng mức chiết khấu cao cộng với tiền thưởng trên doanh số bán được”.
Đó là lý do vì sao mặt tiền của những gian hàng tại chợ truyền thống vẫn luôn là vị trí bất khả xâm phạm của nhãn hàng nước ngoài. 

Bên cạnh sự “chèn ép” của các tập đoàn đa quốc gia, các DN trong nước còn bị bao vây bởi hàng ngoại nhập từ các nước Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia... Khốc liệt nhất hiện nay là ở lĩnh vực thực phẩm, bánh kẹo, quần áo, giày dép...
Với chiến lược mang hàng đến từng sạp, cho gối đầu thoải mái và mẫu mã muốn kiểu gì cũng có khiến hàng hóa của những nước này đang tràn ngập các chợ. 

Chùn chân giữ chợ
Tôi rất muốn đưa hàng ra chợ, bỏ mối cho các cửa hàng khác, nhưng vẫn lo vì vốn chưa đủ lớn cho bạn hàng gối đầu. Nếu không tính toán cẩn thận, khó tránh khỏi tình trạng mất cả lời lẫn vốn”, ông Hạnh phân bua.Ông Nguyễn Văn Hạnh, Giám đốc Công ty Hoàng Minh Ngọc, cho biết, công ty của ông sản xuất các loại túi xách, ví da làm từ da thật nhưng mới chỉ dám bán ở cửa hàng của công ty và một quầy hàng ở chợ Bến Thành.
Còn theo ông Vũ Đình Phương, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Quạt Việt Nam (Asia), muốn đưa được hàng vào chợ, DN phải có một hệ thống dịch vụ phục vụ “tận răng” cho tiểu thương, phải có tiềm lực tài chính tốt đủ sức chịu đựng cho tiểu thương gối đầu tiền hàng. Không những thế, DN phải có chính sách giá bán phải luôn ở mức rẻ nhất.
Bởi vì, nếu giá bán không đủ hấp dẫn, tiểu thương sẽ từ chối ngay. Những điều này thì đa số DN trong nước rất khó đáp ứng. “Trong điều kiện khó khăn này, chúng tôi phải vay vốn để sản xuất mà phải bán hàng trong tình trạng gối đầu như thế là rất khó”, chủ một DN sản xuất thực phẩm nói. 
Kết quả khảo sát 11 chợ tại TP.HCM thuộc “Dự án nghiên cứu người tiêu dùng, đưa hàng Việt vào chợ” do BSA thực hiện mới đây cho thấy, tỷ lệ hàng Việt tại chợ hiện nay khá cao. Trong đó, nhóm hàng thực phẩm có 90% hàng bán tại chợ là hàng Việt, hàng hóa mỹ phẩm có khoảng 60%, đồ dùng gia đình trên 50%... Đáng chú ý là hàng được sản xuất 100% gốc Việt có rất ít trên quầy kệ ở các chợ. 

Nghiên cứu cũng cho thấy, người tiêu dùng ngại đến chợ vì lo lắng về nhiều thứ. Trong đó, hàng trôi nổi, hàng không nguồn gốc, xuất xứ, hàng giả, hàng nhái, hàng cũ, quá hạn sử dụng, không đúng hạn sử dụng là mối lo ngại đầu tiên. Với hàng Việt thì sợ chất lượng không ổn định, đôi khi không đúng nhãn hiệu trên bao bì. Mua hàng ở chợ, người tiêu dùng còn ngại giá cả lên xuống bất thường, nhất là trong các dịp lễ, Tết.
Trong khi đó, với tiềm lực tài chính mạnh, các DN nước ngoài sẵn sàng hạ thấp nhất mức lợi nhuận, miễn sao tạo “ấn tượng tốt” với người bán hàng. Không chỉ vậy, các DN này còn chi khá mạnh để giành được “đất vàng” - khu trung tâm, mặt tiền ở các chợ.
Trong một thời gian dài, đi ngang qua bất cứ chợ nào ở TP.HCM, người đi đường đều thấy “Thách thức mọi vết bẩn”, “Đánh bật mọi vết bẩn” hay “Năng lượng lốc xoáy” của nhãn hàng Omo. 

Ngoài yếu thế về tài chính, DN nội địa còn thua đối thủ ở nhiều mặt khác. Theo nhận định của người bán tại 11 chợ trên địa bàn TP.HCM do Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) khảo sát mới đây, cam kết uy tín của hàng Việt còn thấp (thể hiện chất lượng ban đầu ra rất tốt, sau đó giảm dần), lợi nhuận và chiết khấu thấp hơn so với hàng liên doanh cũng như hàng ngoại.
Việc bỏ hàng, giao hàng của các DN nội không ổn định, hỗ trợ quảng cáo ít và cũng ít có những chương trình khuyến mãi (cả về chất lượng và số lượng). Các chương trình hỗ trợ bán hàng nếu có cũng ít kiểm tra, giám sát và không thường xuyên tương tác với người bán hàng.
Không chỉ vậy, chủng loại hàng hóa cũng chưa đa dạng, ít ra sản phẩm mới... Dù đã thay đổi khá nhiều so với trước nhưng hình thức kinh doanh tại các chợ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các bạn hàng bán sỉ. Hình thức mua bán gối đầu, trả chậm, ứng hàng trước thu tiền sau... vẫn phổ biến.
Vì e ngại sự rủi ro trong hình thức mua bán gối đầu này nên nhiều DN chấp nhận bỏ trống việc phát triển mạng lưới tại các chợ, chỉ tập trung đầu tư, tìm chỗ đứng tại các siêu thị, hoặc mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Đây chính là điều kiện để hàng ngoại thâm nhập ngày càng sâu rộng vào các chợ truyền thống.